Nhã nhạc cung đình Huế – Di sản văn hóa cung đình

Nhã nhạc là dòng nhạc được biểu diễn trong những triều đại phong kiến xưa. Tại Việt Nam, Nhã nhạc cung đình Huế vẫn còn được bảo tồn khá nguyên vẹn. Trong đó có các nhạc khí, những bài nhạc dùng trong nghi lễ hoàng cung. Hiện nay Nhã nhạc thường được biểu diễn tại các kỳ lễ hội lớn, mang tính trang nghiêm, qua đó quảng bá rộng rãi đến du khách quốc tế. Hiện nay Nhã nhạc đã được tổ chức UNESCO ghi nhận là di sản văn hoá phi vật thể. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu bài viết ‘Nhã nhạc cung đình Huế – Di sản văn hóa cung đình’

Sơ bộ về nhã nhạc cung đình Huế

Nhã nhạc vương triều Nguyễn kế thừa những nét hay, đẹp, đặc sắc từ những triều đại trước, nhất là thời các chúa Nguyễn cai quản và phát triển Đàng Trong (1558 – 1777) với sự đóng góp xuất sắc của vị kiệt tướng đa tài, chính trị gia, chiến lược gia, kỹ thuật gia, nghệ sư, thi sĩ, học giả Đào Duy Từ (1572 – 1634). Theo lời mời của Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu, hòa thượng Thích Đại Sán/Thạch Liêm/ hạch Đầu Đà dẫn đầu phái đoàn cả trăm người từ Trung Hoa thăm Đàng Trong giai đoạn 1695 – 1696.

Sơ bộ về nhã nhạc cung đình Huế
Sơ bộ về nhã nhạc cung đình Huế

Xem thêm các bài viết về Văn hoá Việt Nam tại đây.

Những gì mắt thấy tai nghe lúc ấy, thiền sư Thạch Liêm ghi chép thành 6 quyển “海外紀事/Hải ngoại kỷ sự”. Đã có bản Việt dịch bởi Nguyễn Phương và Hải Tiên Nguyễn Duy Bột (Viện Đại học Huế ấn hành, 1963 – NXB Đại học Sư phạm Hà Nội tái bản, 2016). Qua sách nọ, Thạch Liêm đánh giá cao về ca múa nhạc và hát bội. Khi được mời xem trong phủ chúa ở Phú Xuân, nhất là vũ khúc Thái liên/Hái sen.

Giá trị của nhã nhạc – Công dụng và bảo tồn

Vương triều Nguyễn gồm 13 đời vua, kéo dài 143 năm (1802 – 1945), có thể phân 2 thời kỳ:

  • Đầu là ổn định và phát triển (1802 – 1885).
  • Sau, kể từ kinh đô thất thủ đến lúc vua Bảo Đại thoái vị (1885 – 1945), là suy và tàn.

Triều đình Huế quy định các đại lễ có sử dụng nhã nhạc, tất nhiên quy mô và mức độ khác nhau tùy lễ: Tế Giao, Tịch điền, Tế Văn miếu, Tế đàn Xã tắc, Tế miếu Lịch đại/đợi đế vương, Ban sóc/lịch, Lập xuân, có Tiến xuân ngưu, Kỳ đạo, Đại triều, Thường triều, Đại yến, Tết Nguyên đán, Tiếp đón sứ thần.

Quả thật, âm nhạc cung đình Việt Nam hưng thịnh nhất vào giai đoạn nhà Nguyễn, nhất là thời kỳ đầu, và may mắn đến nay dẫu trải qua chiến tranh tàn khốc vẫn được bảo lưu nhờ tư liệu khá đầy đủ, nhất là 2 bộ sách “歷朝憲章類誌/Lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học, nhà thư tịch học, nhà thơ Phan Huy Chú (1782 – 1840) và “欽定大南會典事例/Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” (gọn hóa thành Khâm định) của Quốc sử quán triều Nguyễn.

Những thư mục đáng tham khảo

Ngoài ra, còn những thư mục đáng tham khảo. Chẳng hạn các bài liên quan đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH). Thường được gọi tập san Đô Thành Hiếu Cổ. Đã ấn hành 120 số trong niên đoạn 1914 – 1944 do linh mục Pháp Léopold Michel Cadière (1869 – 1955) chủ trì. Đó là học giả, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà vãn hóa học; nhà dân tộc học, nhà nhân loại học, nhất là nhà Việt Nam học và nhà Huế học tiên phong.

Những thư mục đáng tham khảo
Những thư mục đáng tham khảo
  • Vẫn bảo tồn hệ thống bài bản âm nhạc, các nhạc chương và vũ khúc cung đình; kể cả làn điệu “Tứ đại cảnh” tương truyền do vua Tự Ðức sáng tác.
  • Vẫn bảo lưu đầy đủ nhạc khí, từ dây để gẩy vuốt, đến dùng khí thổi, dùng tay trần hoặc dụng cụ thích hợp để tác động, chế tạo bằng nhiều chất liệu, kể cả những nhạc cụ tưởng chừng bị “tuyệt diệt”.

3 dàn nhạc cung đình nhà Nguyễn

Dàn nhạc khí Tiểu nhạc/Ti trúc tế nhạc

  • Gồm các nhạc khí:
  • Trống mảnh
  • Ðàn tì bà
  • Ðàn nguyệt
  • Ðàn dây
  • Ống dích
  • Nhị tam âm
  • Sanh tiền

Theo GS Tô Ngọc Thanh, đàn dây là đàn nhị, ống dích có thể là sáo, nhị tam âm là tam âm la gồm 3 chiếc thanh la nhỏ.

Dàn nhạc khí Huyền nhạc/nhạc treo

Gồm các nhạc cụ:

  • Kiến cổ (một loại trống)
  • Chuông to
  • Chuông nhỏ 2 cái
  • Khánh lớn
  • hánh nhỏ 12 cái
  • Bác phụ (nhạc khí bằng da)
  • Chúc
  • Trống
  • Đàn cầm
  • Đàn sắt
  • Bài tiêu (khèn kết bằng 23 ống trúc)
  • Tiêu
  • Ốc đinh
  • Sênh
  • Huân (nhạc cụ bằng đất có 6 lỗ, dùng để thổi)
  • Trì (sáo trúc có 8 lỗ)
  • Phách bàn

Dàn nhạc khí Đại nhạc/Cổ xúy đại nhạc

Cổ là trống. Xúy là thổi. Gồm các nhạc khí:

  • Trống
  • Kèn
  • Tù và bằng sừng
  • Tù và bằng ốc
  • Thanh la lớn
  • Thanh la nhỏ

So sánh và nhận xét về các dàn nhạc khí

Trong Khâm định, chỉ 3 dàn nhạc nêu trên được miêu tả chi tiết, 7 dàn nhạc còn lại chỉ lướt qua. Hợp soạn giáo trình “Lịch sử âm nhạc cung đình Việt Nam” (NXB Ðại học Huế, 2015), Nguyễn Việt Ðức, Nguyễn Ðình Sáng, Bùi Ngọc Phúc so sánh nhạc cung đình triều Nguyễn với nhạc cung đình triều Hậu Lê:

So sánh và nhận xét về các dàn nhạc khí
So sánh và nhận xét về các dàn nhạc khí
  • Nhạc cung đình triều Nguyễn vẫn có những tiếp thu nhạc cung đình triều Hậu Lê. Nhưng thay đổi tên gọi về tổ chức cùng hiệu danh các dàn nhạc.
  • Rõ ràng phong phú hơn nhạc cung đình thời Hậu Lê. Nhạc cung đình triều Nguyễn có những nhạc khí nguồn gốc Việt.
  • Nhạc cung đình triều Nguyễn dung hòa chứ không cách biệt với nhạc dân gian như nhạc cung đình triều Hậu Lê.

Năm 2003, nhã nhạc Huế được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc/United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) ghi vào danh sách di sản phi vật thể đại diện cho nhân loại, với lời đánh giá đầy trân quý: “Ở Việt Nam, trong các thể loại nhạc cổ truyền, chỉ nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia. Ở Việt Nam, nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ XIII. Đến thời nhà Nguyễn thì nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất”.

Phục vụ nhã nhạc cung đình cho hai đời vua

Ở tuổi 105, mặc dù sức khỏe đã yếu nhưng đầu óc của cụ Lữ Hữu Thi vẫn khá minh mẫn. Tiếp chuyện tôi trong căn nhà nhỏ ở thôn Thế Lại Thượng, xã Hương Vinh (thị xã Hương Trà, Thừa Thiên- Huế), cụ Thi vẫn nhớ rõ những ngày tháng cụ được vào cung phục vụ nhã nhạc cho các đời vua Khải Định và vua Bảo Đại.

Sinh ra trong một gia đình có ông nội và bố là những nhạc công nhã nhạc, nên từ khi còn để chỏm cụ Thi đã làm quen với đàn nhị, đàn tam, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, địch, phách tiền, tam âm, trống bản, sáo… và những điệu ca tài tử xứ Huế. Mới 8 tuổi cụ đã sử dụng thành thạo các nhạc cụ và thuộc làu những điệu ca tài tử. Lên 10 tuổi, cụ đã cùng người thân trong nhà đi biểu diễn nhã nhạc phục vụ cho các lễ cúng trong dân gian để kiếm sống.

Nghề biểu diễn nhã nhạc phục vụ cho các lễ cúng thu nhập không đủ sống nên cụ Thi học thêm nghề kim hoàn. Nhờ năng khiếu bẩm sinh cộng thêm sự chuyên cần học hỏi nên chỉ một thời gian ngắn sau đó cụ đã trở thành thợ kim hoàn nổi tiếng và được triều đình mời vào cung chế tác các vật dụng bằng vàng.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *